LỜI MỞ ĐẦU
Rau quả là thực phẩm rất quan trọng cho sức khỏe con người. Các nghiên cứu chỉ ra rằng rau quả giúp phòng chống ngăn ngừa các bệnh như: xơ vữa động mạch, ung thư, tiểu đường, viêm khớp và lão hóa (Kaur and Kapoor, 2001), v.v. Do vậy, rau quả luôn là một phần không thể thiếu trong bữa ăn thông thường của các gia đình, đặc biệt là tại Việt Nam, một nước đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp, nơi mà nhu cầu tiêu thụ rau quả của người dân thuộc nhóm cao nhất thế giới (Wertheim - Hesk et al., 2014). Tuy nhiên, tình trạng mất an toàn rau quả ở Việt Nam đang đặc biệt đáng báo động do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu, thuốc tăng trưởng, hóa chất bảo quản vượt quá giới hạn cho phép,... (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2014). Do đó, nhu cầu về đảm bảo rau quả an toàn tại Việt Nam là rất hiện hữu và cấp thiết. Thêm vào đó, với mức thu nhập bình quân đang gia tăng, nhu cầu về an toàn thực phẩm, trong đó có rau an toàn (RAT) của các hộ gia đình Việt Nam càng gia tăng đáng kể. Như vậy có thể nói, sản xuất nông nghiệp Việt Nam nói chung và sản xuất rau quả nói riêng đang có cơ hội lớn trong việc tiếp cận với nhu cầu ngày càng gia tăng này. Đây cũng là cơ hội cho hơn 10 triệu nông hộ Việt Nam trong việc nâng cao thu nhập của mình bằng cách sản xuất các sản phẩm an toàn, trong đó có rau quả an toàn đưa lại giá trị gia tăng cao thay vì các sản phẩm thông thường với giá trị gia tăng thấp.
Không chỉ trên thị trường nội địa, tiềm năng nông nghiệp Việt Nam nói chung và rau quả nói riêng trên thị trường quốc tế là rất lớn, đặc biệt là thị trường châu Âu, do lợi thế của Việt Nam về sự đa dạng trong chủng loại hoa quả nhiệt đới[1]. Tuy nhiên để có thể biến các tiềm năng này thành hiện thực thì ngành sản xuất rau quả Việt Nam cần đảm bảo được các tiêu chuẩn khắt khe về an toàn thực phẩm của các thị trường này.
Mặt khác, ngành nông nghiệp sạch Việt Nam cũng đang chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường nội địa. Trong đó, ngành rau quả chịu sự cạnh tranh đáng kể, đặc biệt là từ các sản phẩm rau quả được sản xuất tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, v.v nơi mà độ an toàn của nó được đảm bảo một cách khá nghiêm ngặt và chiếm được lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam. Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, lượng rau quả nhập khẩu vào Việt Nam đang ngày càng gia tăng một cách đáng kể[2]. Điều này ảnh hưởng lớn đến thị trường rau quả nội địa bởi chỉ có đảm bảo được sự an toàn của rau quả, thị trường này mới có thể phát triển bền vững, ngành trồng trọt của Việt Nam mới có thể giữ vững được thị trường sân nhà, giữ được việc làm và nguồn thu nhập cho người nông dân cũng như đáp ứng nhu cầu về an toàn thực phẩm ngày càng cao của người dân và có thể có những bước phát triển bền vững trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, bản thân việc sản xuất ra các sản phẩm rau quả an toàn là chưa đủ để có một thị trường rau quả an toàn, điều cốt yếu là cần có một cơ chế vận hành thị trường phù hợp với đặc tính của thị trường này - tính bất đối xứng (BĐX) thông tin ở mức cao giữa người bán và người mua về chất lượng của sản phẩm (Akerlof, 1970). Đây là một vấn đề không dễ, kể cả tại các quốc gia phát triển. Cụ thể hơn, người bán thường có thông tin tốt chính xác hơn người mua về việc liệu rau quả mình bán có phải là rau quả an toàn hay không, còn người mua thì gần như không thể biết được kể cả sau khi đã tiêu dùng nó. Do đó, người tiêu dùng thường dựa vào lòng tin đối với các tín hiệu liên quan tới sản phẩm, thường được cung cấp bởi bên bán, trong quá trình ra quyết định mua/không mua các sản phẩm này.
Tuy nhiên, lòng tin trong bối cảnh này là không đủ cơ sở nếu các tín hiệu này không được xác thực bởi một bên thứ ba, thường là cơ quan quản lý nhà nước (Le Quoc Hoi và Nguyen Thi Minh, 2018; McCluskey, 2000). Do đó, hành vi của người tiêu dùng trên thị trường này phụ thuộc vào lòng tin vào các tín hiệu cũng như vào vai trò xác thực tín hiệu của quản lý nhà nước chứ không đơn thuần như hành vi tiêu dùng tại các thị trường hàng hóa thông thường. Vì vậy, để có thể xây dựng một cơ chế vận hành nhằm phát triển bền vững thị trường rau quả an toàn, việc nghiên cứu định lượng về hành vi của người tiêu dùng, đặc biệt là lòng tin của họ trên thị trường rau quả an toàn là rất cần thiết.
Trên thế giới đã có khá nhiều nghiên cứu về vấn đề này, kết quả tùy thuộc đáng kể vào mức độ phát triển kinh tế - văn hóa - nhận thức xã hội của người dân. Việt Nam là một nước có nền kinh tế chuyển đổi, nơi mà nhà nước đã từng vận hành thay cho thị trường, cơ chế quản lý nhà nước vẫn bộc lộ nhiều vấn đề. Thêm vào đó, thị trường rau quả Việt Nam, đặc biệt ở phía người bán là một thị trường phân tán nhỏ lẻ, vì vậy hiệu lực kiểm soát của nhà nước về chất lượng sẽ gặp nhiều khó khăn, và hậu quả là mức độ tin cậy của người tiêu dùng vào các thông tin được cung cấp cũng sẽ bị ảnh hưởng. Do đó việc nghiên cứu riêng cho thị trường Việt Nam là rất cần thiết.
Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về thị trường rau quả an toàn như Nguyễn Thị Hồng Trang (2016), Nguyễn Thành Long (2012). Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào phía cung, tức là về vấn đề kỹ thuật đảm bảo chất lượng từ người trồng trọt. Một số khác nghiên cứu về cầu như Lê Thùy Hương (2014) nghiên cứu về ý định mua thực phẩm an toàn. Gần đây có Le Quoc Hoi và Nguyen Thi Minh (2018) nhưng đây là nghiên cứu mang tính lý thuyết mô phỏng. Hay Trần Thị Thu Hà và cộng sự (2020) lại nghiên cứu về nhận thức rủi ro của người tiêu dùng trên thị trường thực phẩm an toàn. Hầu như chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu một cách toàn diện các khía cạnh về hành vi của người tiêu dùng trên thị trường RAT Việt Nam. Trên cơ sở đó, cuốn sách chuyên khảo này tiếp cận từ phía cầu về rau an toàn dựa trên lý thuyết phát tín hiệu và các mô hình toán kinh tế nhằm định lượng: (i) vai trò của các tín hiệu đối với lòng tin trong quyết định tiêu dùng rau an toàn, (ii) tác động của các yếu tố đến hành vi tiêu dùng rau an toàn. Dữ liệu được sử dụng trong cuốn sách được thu thập từ người tiêu dùng trên đại bàn Hà Nội. Mặc dù dữ liệu này không hoàn toàn đại diện cho hành vi tiêu dùng rau an toàn tại các thành phố lớn, nhưng có thể giúp nghiên cứu ban đầu về hành vi tiêu dùng rau an toàn ở khu vực thành thị lớn của Việt Nam. Từ đó, cuốn sách đề xuất các khuyến nghị về quản lý nhà nước nhằm xây dựng và phát triển thị trường RAT bền vững, cũng như khuyến nghị tới các bên tham gia vào thị trường rau an toàn, gồm nhà cung cấp và người tiêu dùng. Do các giới hạn về nguồn lực, nội dung cuốn sách còn nhiều khía cạnh hạn chế. Tác giả mong muốn nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn cho lần xuất bản sau.
Cuốn sách gồm 5 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu;
Chương 2. Phương pháp nghiên cứu;
Chương 3. Thực trạng thị trường rau an toàn Việt Nam và số liệu điều tra;
Chương 4. Phân tích định lượng về hành vi tiêu dùng rau an toàn của khách hàng;
Chương 5. Kết luận và ứng dụng nghiên cứu.
Sách đã xuất bản trên trang nxbxaydung.com.vn; drm.neu.edu.vn. Mời độc giả đón đọc...