MỞ ĐẦU
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã chứng kiến không ít các sự kiện rủi ro đạo đức dẫn tới nhiều thiệt hại. Năm 1995, Barings Bank - ngân hàng với hơn 200 năm lịch sử của Anh đã bị phá sản bởi Nick Leeson, 28 tuổi, nhân viên của Barings Bank tại chi nhánh Singapore gây nên khoản lỗ 827 triệu bảng, tương đương 1,4 tỷ đôla Mỹ do đầu cơ vào các hợp đồng tương lai (Như Tâm, 2018). Tháng 9/2016, ngân hàng Wells Fargo, Mỹ phát hiện các nhân viên của ngân hàng đã tự mở hơn 1,5 triệu tài khoản khống trong giai đoạn 2011-2015 để thu về hàng triệu USD tiền phí của khách hàng và giúp nhân viên ngân hàng hoàn thành chỉ tiêu doanh số và lĩnh tiền thưởng (Anh Hùng, 2016). Điều đó là do ngân hàng kinh doanh tiền tệ nên đây một ngành kinh doanh rất đặc biệt, rủi ro đạo đức có thể xảy ra ở mọi vị trí nhân sự trong ngân hàng, từ cán bộ quản lý cho tới các nhân viên, từ cán bộ tín dụng, hỗ trợ tín dụng cho tới các giao dịch viên. Rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng không chỉ gây thiệt hại về tài chính cho chính bản thân ngân hàng và khách hàng mà còn có thể gây bùng nổ rủi ro và đổ vỡ toàn hệ thống ngân hàng...
Để hạn chế rủi ro đạo đức, các ngân hàng trên thế giới đã đưa ra Hiệp ước Basel – trong đó Basel 2 đã đưa ra các trụ cột để giảm thiểu rủi ro hoạt động. Tuy nhiên, rủi ro đạo đức lại không được đề cập trực tiếp tại Basel 2, Basel 3 hay các văn bản sửa đổi sau này. Vì thế, đưa ra một khung quản trị rủi ro đạo đức dựa trên các mô hình phù hợp đang là một trong những đòi hỏi cả về mặt lý thuyết và thực tiễn trong quản trị ngân hàng hiện đại. Bên cạnh đó, rủi ro đạo đức cần được xét trên khía cạnh ý định thực hiện hành vi vi phạm của nhân viên ngân hàng để từ đó đưa ra các hàm ý chính sách vừa để phòng ngừa vừa để hoàn thiện khung quản lý. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, cơ quan quản lý đã phát hiện nhiều trường hợp vi phạm lên tới hàng ngàn tỷ đồng do cán bộ ngân hàng làm sai dưới nhiều hình thức: cho vay khi tài sản thế chấp chưa đăng ký giao dịch đảm bảo, cho vay khách hàng không đủ điều kiện vay vốn, thẩm định giám sát điều kiện vốn vay chưa chặt chẽ, phân loại nợ không đúng quy định, cho vay khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không trích lập và trích lập dự phòng không đúng quy định, cho vay đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng, đầu tư mạo hiểm… Có thể thấy, rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng là loại rủi ro khó nhận biết, khó đo lường nhưng lại để lại hậu quả nặng nề. Trong các nội dung khuyến nghị về quản trị rủi ro của Basel (BCBS, 2006), những nguyên nhân dẫn tới rủi ro hoạt động xuất phát từ con người với các hành động như gian lận, giả mạo, trộm cắp, hoạt động sai thẩm quyền, không đúng quy định hay tổ chức quản lý nguồn nhân lực không hiệu quả được phân loại vào rủi ro hoạt động và nhóm các sự kiện rủi ro hoạt động, tuy nhiên, về bản chất đây chính là biểu hiện của rủi ro đạo đức. Như vậy, quản trị rủi ro đạo đức trên quan điểm của Basel 2/3 chưa được đặt ra là một nội dung riêng biệt mà chỉ là một vài quan điểm được đề cập trong quản trị rủi ro hoạt động - điều này là không phù hợp với bối cảnh kinh doanh của ngân hàng - nơi mà rủi ro đạo đức không chỉ xảy ra nhiều mà còn tồn tại dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Do đó, cần phải nhìn nhận đúng về ảnh hưởng của rủi ro đạo đức trong họat động ngân hàng và có một mô hình quản trị rủi ro đạo đức với vị trí xứng đáng trong quản trị ngân hàng. Vì thế, nghiên cứu mô hình quản trị rủi ro đạo đức trong ngân hàng; cùng với đó, việc xác định nhân tố ảnh hưởng tới hành vi rủi ro đạo đức của nhân nhân viên ngân hàng và nhân tố ảnh hưởng tới việc thiết lập và vận hành quản trị rủi ro đạo đức của ngân hàng thương mại Việt Nam để ngăn chặn những hành vi rủi ro đạo đức và giảm thiểu những thiệt hại do hành vi rủi ro đạo đức gây ra là hết sức cần thiết.
Do vậy, dựa trên mô hình quản trị rủi ro đạo đức của Greg Shaw (2009); dựa trên lý thuyết hành vi dự định (TPB) để khảo sát diện rộng nhằm tìm ra những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi rủi ro đạo đức của ngân viên ngân hàng, phỏng vấn sâu lãnh đạo ngân hàng nhằm xác định nhân tố ảnh hưởng tới việc thiết lập mô hình quản trị rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng. Trên cơ sở đó, cuốn sách chuyên khảo này đề xuất mô hình quản trị rủi ro đạo đức theo mô hình Greg Shaw cho các ngân hàng thương mại Việt Nam, đưa ra các điều kiện để áp dụng được mô hình và các khuyến nghị cho cơ quan quản lý.
Cuốn sách gồm 08 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về mô hình quản trị rủi ro đạo đức Greg Shaw
Chương 2: Những vấn đề cơ bản về ngân hàng
Chương 3: Tổng quan và thiết kế nghiên cứu về mô hình quản trị rủi ro đạo đức tại ngân hàng
Chương 4: Hệ thống ngân hàng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Chương 5: Nghiên cứu hiện trạng quản trị rủi ro đạo đức của ngân hàng Việt Nam
Chương 6: Kinh nghiệm quốc tế trong quản trị rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng
Chương 7: Mô hình cho quản trị rủi ro đạo đức Greg Shaw cho ngân hàng Việt Nam
Chương 8: Các khuyến nghị nhằm áp dụng mô hình Greg Shaw cho các ngân hàng Việt Nam
Sách đã xuất bản trên trang nxbxaydung.com.vn; drm.neu.edu.vn. Mời độc giả đón đọc...